BÀI TỤNG BUỔI SÁNG – NGÀY THỨ 6 KHOÁ THIỀN VIPASSANA 10 NGÀY
Buổi sáng ngày thứ 6 trong khoá thiền Vipassana 10 ngày, Ngài S.N. Goenka tụng bài kinh Paṭiccasamuppāda (Anuloma & Paṭiloma) – Chuỗi Nảy Sinh Bởi Nguyên Nhân (Chiều thuận & Chiều nghịch)
NỘI DUNG BÀI TỤNG BUỔI SÁNG – NGÀY THỨ 6 – TIẾNG PALI, TIẾNG ẤN ĐỘ, TIẾNG ANH, TIẾNG VIỆT NAM
Bài tụng ngày thứ 6 khoá thiền Vipassana 10 ngày – Pali Chanting – S.N. Goenka.pdf
AUDIO CÁC BÀI TỤNG BUỔI SÁNG:
VIDEO BÀI TỤNG BUỔI SÁNG NGÀY 6:
NỘI DUNG BÀI TỤNG (TIẾNG HINDI – PALI – ENGLISH – VIETNAM)
TIẾNG PALI & HINDI | TIẾNG VIỆT | TIẾNG ANH |
MORNING CHANTING _ DAY 6 – BÀI TỤNG BUỔI SÁNG _ NGÀY THỨ 6 (Pali)
1.a) Jāgo logo jagata ke, bītī kālī rāta; huā ujālā dharama kā maṅgala huā prabhāta. Āo prāṇī viśva ke, suno Dharama kā jñāna; isa meṅ sukha hai, śānti hai, mukti mokṣa nirvāṇa. Yaha to vāṇi buddha kī, śuddha dharama kī jyota; akṣara akṣara meṅ bharā, maṅgala otaparota. Buddha-vāṇī mīṭhī ghaṇī, misarī ke se bola; kalyāṇī maṅgalamayī, bharā amṛtarasa ghola. 2.a) Deva-āhvānasuttaṃ Samantā cakkavāḷesu, atrāgacchantu devatā; (3x) saddhammaṃ munirājassa, suṇantu sagga-mokkhadaṃ. Dhammassavaṇakālo ayaṃ, bhadantā’ (3x) 3.) namo tassa bhagavato arahato sammā-sambuddhassa. (3x) 4.) Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi; dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi; saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi. 5.) Imāya dhammānudhammapaṭipattiyā, buddhaṃ pūjemi; dhammaṃ pūjemi; saṅghaṃ pūjemi. 6.) Ye ca Buddhā atītā ca, ye ca Buddhā anāgatā; paccuppannā ca ye Buddhā, ahaṃ vandāmi sabbadā. Ye ca Dhammā atītā ca, ye ca Dhammā anāgatā; paccuppannā ca ye Dhammā, ahaṃ vandāmi sabbadā. Ye ca Saṅghā atītā ca, ye ca Saṅghā anāgatā; paccuppannā ca ye Saṅghā, ahaṃ vandāmi sabbadā. 7.) natthi me saraṇaṃ aññaṃ, Buddho me saraṇaṃ varaṃ; etena sacca-vajjena, jayassu jaya- maṅgalaṃ. natthi me saraṇaṃ aññaṃ, Dhammo me saraṇaṃ varaṃ; etena sacca-vajjena, bhavatu te jaya-maṅgalaṃ. natthi me saraṇaṃ aññaṃ, Saṅgho me saraṇaṃ varaṃ; etena sacca- vajjena, bhavatu sabba-maṅgalaṃ. Tiratana Vandanā 8.) Iti’pi so bhagavā arahaṃ, sammā-sambuddho, vijjācaraṇa- sampanno, sugato, lokavidū, anuttaro purisa-damma-sārathī, satthā deva-manussānaṃ, Buddho Bhagavā ‘ti. 9.) Svākkhāto Bhagavatā Dhammo, sandiṭṭhiko, akāliko, ehi-passiko, opaneyyiko, paccattaṃ veditabbo viññūhī’ ti. 10.) Suppaṭipanno Bhagavato sāvaka-saṅgho; ujuppaṭipanno Bhagavato sāvaka-saṅgho; ñāyappaṭipanno Bhagavato sāvaka saṅgho; sāmīcippaṭipanno Bhagavato sāvaka-saṅgho; yadidaṃ cattāri purisa-yugāni, aṭṭha-purisa-puggalā, esa Bhagavato sāvaka-saṅgho; āhuneyyo, pāhuneyyo, dakkhiṇeyyo, añjali-karaṇīyo, anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassā’ti. Paṭiccasamuppāda (Anuloma) Avijjā-paccayā saṅkhārā; saṅkhāra-paccayā viññāṇaṃ; viññāṇa-paccayā nāma-rūpaṃ; nāma-rūpa-paccayā saḷāyatanaṃ; saḷāyatana-paccayā phasso; phassa-paccayā vedanā; vedanā-paccayā taṇhā; taṇhā-paccayā upādānaṃ; upādāna-paccayā bhavo; bhava-paccayā jāti; jāti-paccayā jarā-maraṇaṃ soka- parideva-dukkha- domanassupāyāsā sambhavanti. Evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa samu- dayo hotī’ti. (Paṭiloma) Avijjāya tveva asesa-virāga- nirodhā saṅkhāra-nirodho; saṅkhāra-nirodhā viññāṇa- nirodho; viññāṇa-nirodhā nāma-rūpa- nirodho; nāma-rūpa-nirodhā saḷāyatana- nirodho; saḷāyatana-nirodhā phassa-nirod- ho; phassa-nirodhā vedanā-nirodho; vedanā-nirodhā taṇhā-nirodho; taṇhā-nirodhā upādāna-nirodho; upādāna-nirodhā bhava-nirodho; bhava-nirodhā jāti-nirodho; jāti-nirodhā jarā-maraṇaṃ soka- parideva- dukkha-domanassupāyāsā nirujjhanti. Evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa nirodho hotī’ti. Udāna-gāthā Yadā have pātubhavanti Dhammā, ātāpino jhāyato brāhmaṇassa; ath’assa kaṅkhā vapayanti sabbā, yato pajānāti sahetudhammaṃ. Athassa kaṅkhā vapayanti sabbā, yato khayaṃ paccayānaṃ avedī. Vidhūpayaṃ tiṭṭhati mārasenaṃ, Suriyo va obhāsayaṃ antalikkhaṃ’ti. Aneka-jāti-saṃsāraṃ, sandhāvissaṃ anibbisaṃ; gahakārakaṃ gavesanto, dukkhā jāti punappunaṃ. Gahakāraka! Diṭṭhosi, puna gehaṃ na kāhasi; sabbā te phāsukā bhaggā, gahakūṭaṃ visaṅkhitaṃ; visaṅkhāragataṃ cittaṃ, taṇhānaṃ khayamajjhagā. Jayo hi buddhassa sirīmato ayaṃ, mārassa ca pāpimato parājayo; ugghosayuṃ bodhimaṇḍe pamoditā, jayaṃ tadā nāga-gaṇā mahesino; jayaṃ tadā supaṇṇa-gaṇā ma- hesino; jayaṃ tadā deva-gaṇā mahesino; jayaṃ tadā brahma-gaṇā mahesino. Post-Pāli Sutta Yānīdha bhūtāni samāgatāni, bhummāni vā yāni’va antalikkhe; tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ, buddhaṃ namassāma suvatthi hotu; dhammaṃ namassāma suvatthi hotu; saṅghaṃ namassāma suvatthi hotu. namana karūṅ gurudeva ko, savinaya śīśa navāya; dharama ratana aisā diyā, pāpa nikaṭa nahīṅ āya. Aisā cakhāyā dharama rasa, biṣayana rasa na lubhāya; dharama sāra aisā diyā, chilake diye chuḍāya. roma roma kirataga huā, ṛṇa na cukāyā jāya; jīūṅ jīvana dharama kā, dukhiyana kī sevā karūṅ, yahī ucita upāya. Isa sevā ke puṇya se, dharama ujāgara hoya; kaṭe andherā pāpa kā, jana jana hita-sukha hoya, (2x) jana jana maṅgala hoya. Bhavatu sabba maṅgalaṃ(3x) Sabakā maṅgala, sabakā maṅgala, sabakā maṅgala hoya re. Terā maṅgala, terā maṅgala, terā maṅgala hoya re. Isa dharatī ke taru-tṛṇa meṅ, kaṇa-kaṇa meṅ dharama samā jāye. (2x) Jo bhī tape isa tapobhūmi para, (2x) mukta dukhoṅ se ho jāye. (2x) Sabakā maṅgala, sabakā maṅgala, sabakā maṅgala hoya re. Terā maṅgala, terā maṅgala, terā maṅgala hoya re. Jana jana maṅgala, jana jana maṅgala, jana jana sukhiyā hoya re. |
MORNING CHANTING _ DAY 6 – BÀI TỤNG BUỔI SÁNG _ NGÀY THỨ 6 (Tiếng Việt)
Mọi người trên thế gian, hãy thức tỉnh! Đêm tối đã qua. Ánh sáng của Dhamma đã đến , bình minh của hạnh phúc. Hãy đến, chúng sanh trong vũ trụ, lắng nghe trí tuệ về Dhamma Nơi có hạnh phúc và an lạc, Tự do, giải thoát, niết bàn Đây là những lời của Đức Phật sáng chói trong Dhamma tinh khiết Mỗi từ tràn đầy và thấm nhuần hạnh phúc Ngọt ngào là những lời của Đức Phật mỗi câu như mật ngọt, đem lại an lạc và hạnh phúc, tràn đầy hương vị bất tử. Tới các vị Chư Thiên Chư Thiên từ khắp trong các hệ thế giới, xin hãy tụ họp nơi đây, (3x) để lắng nghe Giáo pháp thuần khiết sẽ dẫn tới cõi trời và giãi thoát, Xin những vị đáng kính, bây giờ là lúc nên lắng nghe Dhamma, (3x) Thành tâm cung kính Ngài, Đấng Thế Tôn, Bậc Chiến Thắng, Giải Thoát, Bậc Tự Giác Ngộ Hoàn Toàn. (3x) Con quay về nương tựa Đức Phật, Con quay về nương tựa Dhamma, Con quay về nương tựa Sangha. Dhamma là con đường con nguyện đi từng bước từ đầu đến đích cuối. Con cung kính Đức Phật; Con cung kính Dhamma; Con cung kính Sangha. Chư Phật trong quá khứ, Chư Phật trong tương lai, Chư Đức Phật hiện tiền, con luôn luôn cung kính. Dhammas trong quá khứ, Dhammas trong tương lai, Dhammas trong hiện tại, con luôn luôn cung kính. Sanghas trong quá khứ, Sanghas trong tương lai, Sanghas trong hiện tại, con luôn luôn cung kính. Con không nương tựa vào nơi nào khác, Đức Phật là nơi nương tựa tuyệt đỉnh của con. Với lời chân thật này nguyện được chiến thắng và hạnh phúc. Con không nương tựa vào nơi nào khác, Dhamma là nơi nương tựa tuyệt đỉnh của con. Với lời chân thật này nguyện quý vị được chiến thắng và hạnh phúc. Con không nương tựa vào nơi nào khác, Sangha là nơi nương tựa tuyệt đỉnh của con. Với lời chân thật này nguyện mọi chúng sinh được hạnh phúc. Ngài là bậc đích thực : đã thanh lọc mọi bất tịnh, diệt trừ mọi phiền não bằng nỗ lực bản thân được giác ngộ hoàn toàn, hoàn hảo trong lý thuyết hoàn hảo trong thực hành, đạt được đích cuối cùng, hiểu biết toàn thể vũ trụ, Thầy dạy cả loài người, thật không ai sánh bằng .Thầy dạy cả chư thiên Đức Phật, Đấng Thế Tôn. Lời dạy của Đấng Thế Tôn, được giảng giải rõ ràng tự mình có thể thấy, kết quả được chứng nghiệm bây giờ và tại đây, mời gọi người đến chứng nghiệm, đưa thẳng tới mục tiêu, ai cũng chứng nghiệm được nếu là người có trí. Những người tu tập tốt hợp thành một đoàn thể đệ tử Đấng Thế Tôn. Những người thực hành cần mẫn hợp thành một đoàn thể đệ tử Đấng Thế Tôn. Tu tập với trí tuệ là người thuộc đoàn thể đệ tử Đấng Thế Tôn. Tu tập thật đúng đắn là người thuộc đoàn thể đệ tử Đấng Thế Tôn. Có thể chia thành bốn hoặc chia thành tám loại những người thuộc đoàn thể đệ tử Đấng Thế Tôn. xứng đáng được cúng dường , xứng đáng được cung phụng, xứng đáng được dâng hiến, xứng đáng được cung kính, ruộng phước của thế gian không ai sánh bằng. Chuỗi Nảy Sinh Bởi Nguyên Nhân (Chiều thuận) Với nền tảng của vô minh, phản ứng nảy sinh; với nền tảng của phản ứng, thức nảy sinh; với nền tảng của thức, tâm và thân nảy sinh; với nên tảng của tâm và thân, sáu giác quan nảy sinh; với nền tảng của sáu giác quan, xúc chạm nảy sinh; với nền tảng của sự xúc chạm, cảm giác nảy sinh; với nền tảng của cảm giác, thèm muốn và chán ghét nảy sinh, với nền tảng của thèm muốn và chán ghét, ràng buộc nảy sinh, với nền tảng của ràng buộc, sự hình thành nảy sinh; với nền tảng của sự hình thành, sự ra đời nảy sinh, với nền tảng của sự ra đời, già, chết nảy sinh, (cùng với) buồn rầu, than khóc, khổ tâm và khổ thân và thống khổ. Bởi vậy toàn bộ khổ đau nảy sinh. (Chiều nghịch) Với sự trừ tuyệt và chấm dứt của vô minh, không còn phản ứng ; với sự chấm dứt của phản ứng, không còn thức; với sự chấm dứt của thức, không còn tâm và thân; với sự chấm dứt của tâm và thân, không còn sáu giác quan với sự chấm dứt của sáu giác quan không còn sự xúc chạm; với sự chấm dứt của sự xúc chạm, không còn cảm giác; với sự chấm dứt của cảm giác, không còn thèm muốn và chán ghét; với sự chấm dứt của thèm muốn và chán ghét, không còn bám víu; với sự chấm dứt của bám víu, không còn sự trở thành; với sự chấm dứt của sự trở thành, không còn sinh ra đời; với sự chấm dứt của sự sinh ra đời, không còn già, chết; (cùng với) buồn rầu,than khóc, khổ tâm và khổ thân và thống khổ. Bởi thế toàn bộ khổ đau chấm dứt. Những câu kệ hân hoan Khi Bốn Sự Thật Thánh Thiện thực sự biểu lộ đối với một người có đời sống thanh tịnh, hành thiền nhiệt thành, thì mọi nghi ngờ đều tan biến; người đó hiểu rõ mỗi sự nảy sinh đều có nguyên nhân. Rồi mọi nghi ngờ tan biến; người đó trải nghiệm sự diệt trừ những điều kiện cho sự nảy sinh. Sau khi phá tan đội quân của Mara, người đó đứng như mặt trời, rực rỡ giữa trời. Qua vô lượng kiếp trong chu kỳ sinh tử Ta đã chạy, trong vô vọng tìm kiếm người người xây căn nhà này; Ta không ngừng đối diện với nỗi khổ của sự tái sinh. Ôi người xây nhà! Giờ ta đã thấy ngươi. Ngươi không thể xây một căn nhà nữa cho ta. Tất cả những cột kèo đã bị bẻ gãy, đòn giông đã bị phá hủy. Tâm trở nên không còn điều kiện; kết thúc của thèm muốn đã đạt được. “Chiến thắng vinh quang của Đức Phật đã đạt được; đánh bại Mara tội lỗi!” Từ chỗ giác ngộ, chiến thắng của vị đại thánh nhân được tuyên dương trong hoan hỉ với sự chủ động của naga; với sự chủ động của supannas (garudas) với sự chủ động của devas, với sự chủ động của brahmas Bất cứ chúng sinh nào tề tựu nơi đây, dù là người hay chư thiên, Đấng Tathagata được người và trời cung kính, chúng con cung kính Đức Phật; (bằng tuyên ngôn về sự thật này) Nguyện cho hạnh phúc hiện diện. Chúng con cung kính Dhamma; (bằng tuyên ngôn về sự thật này) nguyện cho hạnh phúc hiện diện; Chúng con cung kính Sangha; (bằng tuyên ngôn về sự thật này) nguyện cho hạnh phúc hiện diện. Tôi cung kính vị Thầy kính mến của tôi, Tôi cúi đầu lạy dưới chân Ngài; Ngài đã cho tôi châu báu Dhamma, nên ma vương không thể tới gần. Ngài cho tôi nếm hương vị Dhamma, giờ không khoái cảm nào có thể sánh bằng. Với Dhamma chân thật Ngài trao truyền vỏ của vô minh được đập vỡ. Lòng biết ơn tuôn trào từ mỗi lỗ chân lông Tôi không thể trả được món nợ này. Tôi sẽ sống cuộc đời Dhamma và phục vụ những người đau khổ [trên thế gian], đây là cách [để trả nợ] duy nhất. Với phước lành của sự phục vụ này, nguyện cho Dhamma được lan tỏa. Nguyện cho bóng tối ma quỷ bị tiêu tan, Nguyện cho tất cả chúng sinh được hạnh phúc và thịnh vượng, nguyện cho tất cả chúng sinh được hạnh phúc! Nguyện tất cả chúng sinh được hạnh phúc. Nguyện cho tất cả được hạnh phúc, nguyện cho tất cả được hạnh phúc, nguyện cho tất cả được hạnh phúc! Nguyện cho quý vị được hạnh phúc, nguyện cho quý vị được hạnh phúc, nguyện cho quý vị được hạnh phúc! Nguyện cho tất cả các cây, tất cả các ngọn cỏ và tất cả các vi hạt trên trái đất này đều được ngập tràn với Dhamma Nguyện cho tất cả những ai hành thiền trên mảnh đất Dhamma này đều được giải thoát khỏi mọi khổ đau Nguyện cho tất cả được hạnh phúc, nguyện cho tất cả được hạnh phúc, nguyện cho tất cả được hạnh phúc! Nguyện cho quý vị được hạnh phúc, nguyện cho quý vị được hạnh phúc, nguyện cho quý vị được hạnh phúc! Nguyện mọi chúng sinh được hạnh phúc, nguyện mọi chúng sinh được hạnh phúc, nguyện mọi chúng sinh được hạnh phúc! |
MORNING CHANTING _ DAY 6 – BÀI TỤNG BUỔI SÁNG _ NGÀY THỨ 6 (English)
People of the world, awake! The dark night is over. The light has come of Dhamma, the dawn of happiness. Come, beings of the universe, listen to the wisdom of the Dhamma. In this lie happiness and peace, freedom, liberation, nibbana. These are the words of the Buddha, the radiance of pure Dhamma, each syllable of them filled and permeated with happiness. Sweet are the words of the Buddha, each phrase like honey, yielding welfare and happiness, suffused with the taste of the deathless. Address to the Devas From throughout the world systems assemble here, oh devas, (3x) to listen to the pure Dhamma of the king of sages, leading to heaven and liberation. It is now time for listening to the Dhamma , respected ones. (3x) Homage to him, the blessed one, the worthy conqueror, the fully self-enlightened Buddha. (3x) I take refuge in the Buddha, I take refuge in the Dhamma, I take refuge in the Sangha. By walking on the path of Dhamma from the first step to the final goal, I pay respects to the Buddha; I pay respects to the Dhamma; I pay respects to the Sangha. To the Buddhas of the past, to the Buddhas yet to come, to the Buddhas of the present, always I pay respects. To the Dhammas of the past, to the Dhammas yet to come, to the Dhammas of the present, always I pay respects. To the Sanghas of the past, to the Sanghas yet to come, to the Sanghas of the present, always I pay respects. No other refuge have I, the Buddha is my supreme refuge. By this true utterance may there be victory and happiness. No other refuge have I, the Dhamma is my supreme refuge. By this true utterance may you have victory and happiness. No other refuge have I, the Sangha is my supreme refuge. By this true utterance may all beings be happy. Such truly is he: freed from impurities, having destroyed all mental defilements, fully enlightened by his own efforts, perfect in theory and in practice, having reached the final goal, knower of the entire universe, incomparable trainer of men, teacher of gods and humans, the Buddha, the Blessed One. Clearly expounded is the teaching of the Blessed One, to be seen for oneself, giving results here and now, inviting one to come and see, leading straight to the goal, capable of being realized by any intelligent person. Those who have practiced well form the order of disciples of the Blessed One; those who have practiced uprightly form the order of disciples of the Blessed One; those who have practiced wisely form the order of disciples of the Blessed One; those who have practiced properly form the order of disciples of the Blessed One; that is, the four pairs of persons, the eight kinds of individuals – these form the order of disciples of the Blessed One: worthy of gifts, of hospitality, of offerings, of reverent salutation, an incomparable field of merit for the world. Chain of Conditioned Arising (Forward order) With the base of ignorance, reaction arises; with the base of reaction, consciousness arises; with the base of consciousness, mind and body arise; with the base of mind and body, the six senses arise; with the base of the six senses, contact arises; with the base of contact, sensation arises; with the base of sensation, craving and aversion arise; with the base of craving and aversion, attachment arises; with the base of attachment, the process of becoming arises; with the base of the process of becoming, birth arises; with the base of birth, ageing and death arise, [together with] sorrow, lamentation, physical and mental sufferings and tribulations. Thus arises this entire mass of suffering. (Reverse order) With the complete eradication and cessation of ignorance, reaction ceases; with the cessation of reaction, consciousness ceases; with the cessation of consciousness, mind and body cease; with the cessation of mind and body, the six senses cease; with the cessation of the six senses, contact ceases; with the cessation of contact, sensation ceases; with the cessation of sensation, craving and aversion cease; with the cessation of craving and aversion, attachment ceases; with the cessation of attachment, the process of becoming ceases; with the cessation of the process of becoming, birth ceases; with the cessation of birth, ageing and death cease, [together with] sorrow, lamentation, physical and mental sufferings and tribulations. Thus this entire mass of suffering ceases. Verses of Joy When the [Four Noble] Truths become manifest to one of pure life, meditating ardently, then his doubts all disappear; he understands how each factor arising has its cause. Then all doubts vanish; he has experienced the destruction of the conditions for arising. Having scattered the army of Māra he stands like the sun, refulgent in the sky. Through countless births in the cycle of existence I have run, in vain seeking the builder of this house; again and again I faced the suffering of new birth. Oh housebuilder! Now you are seen. You shall not build a house again for me. All your beams are broken, the ridgepole is shattered. The mind has become freed from conditioning; the end of craving has been reached. The glorious victory of the Buddha has come; defeated is Māra the sinful! From the seat of enlightenment, the victory of the great sage was then proclaimed with rejoicing by the host of nāgas; by the host of supaṇṇas [garuḍas]; by the host of devas; by the host of brahmas. Whatever beings are here assembled, whether terrestrial or celestial, the Tathāgata is revered by gods and men; we pay respects to the Buddha; [by the utterance of this truth] may there be happiness; we pay respects to the Dhamma; [by the utterance of this truth] may there be happiness; we pay respects to the Sangha; [by the utterance of this truth] may there be happiness. I pay homage to my revered teacher, humbly bowing my head. He gave me such a jewel of Dhamma that evil cannot approach. He let me taste Dhamma’s nectar, now no sensual pleasure can allure. Such an essence of Dhamma he gave, that the shell [of ignorance] dropped away. From every pore such gratitude is pouring I cannot repay the debt I will live the Dhamma life and serve the suffering people [of the world], this is the only way [to repay the debt]. By the merits of this service, may Dhamma spread. May the darkness of evil be eradicated, may all beings be happy and prosperous, may all beings be happy. May all beings be happy May all be happy, may all be happy, may all be happy! May you be happy, may you be happy, may you be happy! May every tree, every blade of grass, and every particle of this earth be suffused with Dhamma. May all who meditate on this Dhamma land, (2x) be liberated from all suffering, (2x) May all be happy, may all be happy, may all be happy! May you be happy, may you be happy, may you be happy! May all beings be happy, may all beings be happy, may all beings be peaceful! |