BÀI TỤNG BUỔI SÁNG – NGÀY THỨ 9 KHOÁ THIỀN VIPASSANA 10 NGÀY
Buổi sáng ngày thứ 9 trong khoá thiền Vipassana 10 ngày, Ngài S.N. Goenka tụng bài kinh Maṅgala Suttaṃ – Pháp Thoại Về Sự Lợi Lạc
NỘI DUNG BÀI TỤNG BUỔI SÁNG – NGÀY THỨ 9 – TIẾNG PALI, TIẾNG ẤN ĐỘ, TIẾNG ANH, TIẾNG VIỆT NAM
Bài tụng ngày thứ 9 khoá thiền Vipassana 10 ngày – Pali Chanting – S.N. Goenka.pdf
AUDIO CÁC BÀI TỤNG BUỔI SÁNG:
VIDEO BÀI TỤNG BUỔI SÁNG NGÀY 9:
NỘI DUNG BÀI TỤNG (TIẾNG HINDI – PALI – ENGLISH – VIETNAM)
TIẾNG PALI & HINDI | TIẾNG VIỆT | TIẾNG ANH |
MORNING CHANTING _ DAY 9 – BÀI TỤNG BUỔI SÁNG _ NGÀY THỨ 9 (Pali)
1.b) Jāgo logo jagata ke, bītī kālī rāta; huā ujālā dharama kā maṅgala huā prabhāta. Āo prāṇī viśva ke, caleṅ dharama ke pantha; dharama pantha hī śānti patha, dharama pantha sukha pantha. Ādi māṅhi kalyāṇa hai, madhya māṅhi kalyāṇa; anta māṅhi kalyāṇa hai, kadama kadama kalyāṇa. Śīla māṅhi kalyāṇa hai, hai samādhi kalyāṇa; prajñā to kalyāṇa hai, pragaṭe pada nirvāṇa. Kitane dina bhaṭakata phire, andhī galiṅyoṇ māṅhi! Aba to pāyā rāja-patha, vāpasa muḍanā nāṅhi. Aba to pāyā vimala patha, pīche haṭanā nāṅhi. 2.a) Deva-āhvānasuttaṃ Samantā cakkavāḷesu, atrāgacchantu devatā; (3x) saddhammaṃ munirājassa, suṇantu sagga-mokkhadaṃ. Dhammassavaṇakālo ayaṃ, bhadantā’ (3x) 3.) namo tassa bhagavato arahato sammā-sambuddhassa. (3x) 4.) Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi; dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi; saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi. 5.) Imāya dhammānudhammapaṭipattiyā, buddhaṃ pūjemi; dhammaṃ pūjemi; saṅghaṃ pūjemi. 6.) Ye ca Buddhā atītā ca, ye ca Buddhā anāgatā; paccuppannā ca ye Buddhā, ahaṃ vandāmi sabbadā. Ye ca Dhammā atītā ca, ye ca Dhammā anāgatā; paccuppannā ca ye Dhammā, ahaṃ vandāmi sabbadā. Ye ca Saṅghā atītā ca, ye ca Saṅghā anāgatā; paccuppannā ca ye Saṅghā, ahaṃ vandāmi sabbadā. 7.) natthi me saraṇaṃ aññaṃ, Buddho me saraṇaṃ varaṃ; etena sacca-vajjena, jayassu jaya-maṅgalaṃ. natthi me saraṇaṃ aññaṃ, Dhammo me saraṇaṃ varaṃ; etena sacca-vajjena, bhavatu te jaya-maṅgalaṃ. natthi me saraṇaṃ aññaṃ, Saṅgho me saraṇaṃ varaṃ; etena sacca-vajjena, bhavatu sabba-maṅgalaṃ. Tiratana Vandanā 8.) Iti’pi so bhagavā arahaṃ, sammā-sambuddho, vijjācaraṇa- sampanno, sugato, lokavidū, anuttaro purisa-damma-sārathī, satthā deva-manussānaṃ, Buddho Bhagavā ‘ti. 9.) Svākkhāto Bhagavatā Dhammo, sandiṭṭhiko, akāliko, ehi-passiko, opaneyyiko, paccattaṃ veditabbo viññūhī’ ti. 10.) Suppaṭipanno Bhagavato sāvaka-saṅgho; ujuppaṭipanno Bhagavato sāvaka-saṅgho; ñāyappaṭipanno Bhagavato sāvaka saṅgho; sāmīcippaṭipanno Bhagavato sāvaka-saṅgho; yadidaṃ cattāri purisa-yugāni, aṭṭha-purisa-puggalā, esa Bhagavato sāvaka-saṅgho; āhuneyyo, pāhuneyyo, dakkhiṇeyyo, añjali-karaṇīyo, anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassā’ti. Maṅgala Suttaṃ Yaṃ maṅgalaṃ dvādasahi, Cintayiṃsu sadevakā; sotthānaṃ nādhigacchanti, aṭṭatiṃsañca maṅgalaṃ. Desitaṃ devadevena, sabbapāpavināsanaṃ; sabbaloka-hitatthāya, maṅgalaṃ taṃ bhaṇāmahe. Evaṃ me sutaṃ— Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Atha kho aññatarā devatā abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevala- kappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkami. Upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhitā kho sā devatā bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi: Bahū devā manussā ca, maṅgalāni acintayuṃ; ākaṅkhamānā sotthānaṃ, brūhi maṅgalamuttamaṃ [Bhagavā etadavoca:] Asevanā ca bālānaṃ, paṇḍitānañca sevanā; pūjā ca pūjanīyānaṃ, etaṃ maṅgalamuttamaṃ. Patirūpadesavāso ca, pubbe ca katapuññatā; atta-sammāpaṇidhi ca, etaṃ maṅgalamuttamaṃ. Bāhusaccañca sippañca, vinayo ca susikkhito; subhāsitā ca yā vācā, etaṃ maṅgalamuttamaṃ. Mātā-pitu-upaṭṭhānaṃ, puttadārassa saṅgaho; anākulā ca kammantā, etaṃ maṅgalamuttamaṃ. Dānañca dhammacariyā ca, ñātakānañca saṅgaho; anavajjāni kammāni, etaṃ maṅgalamuttamaṃ. Āratī viratī pāpā, majjapānā ca saṃyamo; appamādo ca dhammesu, etaṃ maṅgalamuttamaṃ. Gāravo ca nivāto ca, santuṭṭhi ca kataññutā; kālena dhammassavanaṃ, etaṃ maṅgalamuttamaṃ. Khantī ca sovacassatā, samaṇānañca dassanaṃ; kālena dhammasākacchā, etaṃ maṅgalamuttamaṃ. Tapo ca brahmacariyañca, ariyasaccāna-dassanaṃ; nibbānasacchikiriyā ca, etaṃ maṅgalamuttamaṃ. Phuṭṭhassa lokadhammehi cittaṃ yassa na kampati; asokaṃ virajaṃ khemaṃ, etaṃ maṅgalamuttamaṃ. Etādisāni katvāna, sabbatthamaparājitā; sabbatthasotthiṃ gacchanti, taṃ tesaṃ maṅgalamuttamaṃ. Post-Pāli Sutta Yānīdha bhūtāni samāgatāni, bhummāni vā yāni’va antalikkhe; tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ, buddhaṃ namassāma suvatthi hotu; dhammaṃ namassāma suvatthi hotu; saṅghaṃ namassāma suvatthi hotu. namana karūṅ gurudeva ko, caraṇana śīśa navāya; dharama ratana aisā diyā, pāpa ukhaḍatā jāya. Aisā cakhāyā dharama rasa, biṣayana rasa na lubhāya; dharama sāra aisā diyā, chilake diye chuḍāya. roma roma kirataga huā, ṛṇa na cukāyā jāya; jīūṅ jīvana dharama kā, dukhiyana kī sevā karūṅ, yahī ucita upāya. Isa sevā ke puṇya se, bhalā sabhī kā hoya; sabake mana jāge dharama, mukti dukhoṅ se hoya. Dharamavihārī puruṣa hoṅ, dharamacāriṇī nāra; dharamavanta santāna hoṅ, sukhī rahe parivāra, sukhī rahe sansāra. Bhavatu sabba maṅgalaṃ(3x) Sabakā maṅgala, sabakā maṅgala, sabakā maṅgala hoya re. Terā maṅgala, terā maṅgala, terā maṅgala hoya re. Śuddha dharama ghara ghara meṅjāge; (2x) ghara ghara śānti samāya re. (2x) nara nārī hoṅ dharamavihārī, saba nara nārī dharamavihārī; ghara ghara maṅgala chāya re. (2x) Sabakā maṅgala, sabakā maṅgala, sabakā maṅgala hoya re. Terā maṅgala, terā maṅgala, terā maṅgala hoya re. Jana jana maṅgala, jana jana maṅgala, jana jana sukhiyā hoya re. |
MORNING CHANTING _ DAY 9 – BÀI TỤNG BUỔI SÁNG _ NGÀY THỨ 9 (Tiếng Việt)
Mọi người trên thế gian, hãy thức tỉnh! Đêm tối đã qua. Ánh sáng của Dhamma đã đến , bình minh của hạnh phúc. Hãy tới, chúng sinh trong vũ trụ, chúng ta hãy bước trên con đường Dhamma. Con đường Dhamma là con đường an lạc, con đường Dhamma là con đường hạnh phúc. Lợi lạc lúc đầu, lợi lạc lúc giữa, lợi lạc lúc cuối – từng bước đều lợi lạc. Có lợi lạc về hành vi đạo đức, có lợi lạc về kiểm soát tâm, có lợi lạc về trí tuệ, dẫn tới Nibbana. Đã bao ngày chúng ta tiếp tục lang thang trong ngõ cụt! Bây giờ chúng ta đã tìm thấy con đường vương giả, chúng ta sẽ không bao giờ quay trở lại. Bây giờ chúng ta đã tìm thấy con đường tinh khiết, chúng ta sẽ không bao giờ quay trở lại. Tới các vị Chư Thiên Chư Thiên từ khắp trong các hệ thế giới, xin hãy tụ họp nơi đây, (3x) để lắng nghe Giáo pháp thuần khiết sẽ dẫn tới cõi trời và giãi thoát, Xin những vị đáng kính, bây giờ là lúc nên lắng nghe Dhamma, (3x) Thành tâm cung kính Ngài, Đấng Thế Tôn, Bậc Chiến Thắng, Giải Thoát, Bậc Tự Giác Ngộ Hoàn Toàn. (3x) Con quay về nương tựa Đức Phật, Con quay về nương tựa Dhamma, Con quay về nương tựa Sangha. Dhamma là con đường con nguyện đi từng bước từ đầu đến đích cuối. Con cung kính Đức Phật; Con cung kính Dhamma; Con cung kính Sangha. Chư Phật trong quá khứ, Chư Phật trong tương lai, Chư Đức Phật hiện tiền, con luôn luôn cung kính. Dhammas trong quá khứ, Dhammas trong tương lai, Dhammas trong hiện tại, con luôn luôn cung kính. Sanghas trong quá khứ, Sanghas trong tương lai, Sanghas trong hiện tại, con luôn luôn cung kính. Con không nương tựa vào nơi nào khác, Đức Phật là nơi nương tựa tuyệt đỉnh của con. Với lời chân thật này nguyện được chiến thắng và hạnh phúc. Con không nương tựa vào nơi nào khác, Dhamma là nơi nương tựa tuyệt đỉnh của con. Với lời chân thật này nguyện quý vị được chiến thắng và hạnh phúc. Con không nương tựa vào nơi nào khác, Sangha là nơi nương tựa tuyệt đỉnh của con. Với lời chân thật này nguyện mọi chúng sinh được hạnh phúc. Ngài là bậc đích thực : đã thanh lọc mọi bất tịnh, diệt trừ mọi phiền não bằng nỗ lực bản thân được giác ngộ hoàn toàn, hoàn hảo trong lý thuyết hoàn hảo trong thực hành, đạt được đích cuối cùng, hiểu biết toàn thể vũ trụ, Thầy dạy cả loài người, thật không ai sánh bằng .Thầy dạy cả chư thiên Đức Phật, Đấng Thế Tôn. Lời dạy của Đấng Thế Tôn, được giảng giải rõ ràng tự mình có thể thấy, kết quả được chứng nghiệm bây giờ và tại đây, mời gọi người đến chứng nghiệm, đưa thẳng tới mục tiêu, ai cũng chứng nghiệm được nếu là người có trí. Những người tu tập tốt hợp thành một đoàn thể đệ tử Đấng Thế Tôn. Những người thực hành cần mẫn hợp thành một đoàn thể đệ tử Đấng Thế Tôn. Tu tập với trí tuệ là người thuộc đoàn thể đệ tử Đấng Thế Tôn. Tu tập thật đúng đắn là người thuộc đoàn thể đệ tử Đấng Thế Tôn. Có thể chia thành bốn hoặc chia thành tám loại những người thuộc đoàn thể đệ tử Đấng Thế Tôn. xứng đáng được cúng dường , xứng đáng được cung phụng, xứng đáng được dâng hiến, xứng đáng được cung kính, ruộng phước của thế gian không ai sánh bằng. Pháp thoại về lợi lạc Suốt mười hai năm (người) cùng với chư thiên Thắc mắc, “Lợi lạc là gì?” Nhưng họ không thể đạt được ba mươi tám lợi lạc đưa đến hạnh phúc. Thượng đế (Đức Phật) thuyết giảng (những điều) tiêu trừ tỗi lỗi, Vì lợi lạc khắp thế gian: Chúng ta hãy tụng những lợi lạc này. Tôi nghe như vầy – Một thời Đấng thế Tôn ngụ tại vườn Lộc uyển ở Savatthi, tu viện của Anathapindika. Khi đêm gần tàn, một nữ thần đẹp tuyệt trần, làm toàn thể vườn Lộc Uyển sáng rực, tiến tới chỗ của Đức Phật. Tới nơi, cung kính Đức Phật, nữ thần đứng sang bên cạnh và nói với Đức Phật bằng câu kệ: Nhiều người và chư thiên Thắc mắc về lợi lạc Cầu mong được hạnh phúc. Xin Thế Tôn giảng lợi lạc nhất là gì. (Đức Phật trả lời:) Xa lánh kẻ dại khờ, Gần gũi người khôn, Vinh danh lúc đáng được vinh danh – Đó là lợi lạc cao quý nhất. Một chỗ ở phù hợp Với công đức trong quá khứ, Nguyện vọng chính đáng cho bản thân – Đây là lợi ích cao cả nhất. Học hỏi và thuần thục, Giữ kỷ luật chặt chẽ, Nói lời hay ý đẹp – Đây là lợi ích cao cả nhất. Phục vụ cha mẹ, Chăm sóc vợ con, Nghề nghiệp lương thiện – Đây là lợi ích cao cả nhất Rộng lượng, sống cuộc đời Dhamma, Chăm sóc bà con Hành động không bị chỉ trích – Đây là lợi ích cao cả nhất. Ngừng và xa lánh điều ác, Tránh những chất gây say nghiện, Thận trọng trong Dhamma – Đây là lợi ích cao cả nhất. Kính cẩn, nhún nhường, mãn nguyện, biết ơn, lắng nghe Dhamma đúng lúc – Đây là lợi lạc cao cả nhất. Kiên nhẫn, nghe lời khuyên, lưu ý thánh nhân, nói về Dhamma đúng lúc – Đây là lợi ích cao cả nhất Tập luyện chuyên cần, sống đời thanh tịnh, Chứng ngộ Sự Thật Cao Quý, Trải nghiệm niết bàn– Đây là lợi lạc cao quý nhất. Khi đối diện với sóng gió cuộc đời, tâm không giao động, không buồn phiền, vững vàng, an toàn – Đây là lợi ích cao cả nhất. Hành xử theo cách này, Chiến thắng ở mọi nơi, đi khắp nơi, họ được an toàn – Đây là lợi lạc cao cả nhất. Bất kỳ chúng sinh nào tụ họp nơi đây, dù trên mặt đất hay chư thiên, Đấng Thế Tôn (Tathagata) được cung kính bởi trời và người; Chúng ta cung kính Đức Phật; [bằng cách thốt ra sự thật này] nguyện được hạnh phúc; Chúng ta cung kính Dhamma; [bằng cách thốt ra sự thật này] nguyện được hạnh phúc; Chúng ta cung kính Sangha; [bằng cách thốt ra sự thật này] nguyện được hạnh phúc. Tôi cung kính vị Thầy kính mến của tôi, Tôi cúi đầu lạy dưới chân Ngài; Ngài đã cho tôi châu báu Dhamma, nên ma vương không thể tới gần. Ngài cho tôi nếm hương vị Dhamma, giờ không khoái cảm nào có thể sánh bằng. Với Dhamma chân thật Ngài trao truyền vỏ của vô minh được đập vỡ. Lòng biết ơn tuôn trào từ mỗi lỗ chân lông Tôi không thể trả được món nợ này. Tôi sẽ sống cuộc đời Dhamma và phục vụ những người đau khổ [trên thế gian], đây là cách [để trả nợ] duy nhất. Với phước lành của sự phục vụ này, nguyện tất cả chúng sanh được hạnh phúc! Nguyện cho Dhamma khởi sinh trong tâm của tất cả và giải thoát khỏi mọi khổ đau. Nguyện cho tất cả đàn ông sống một cuộc đời Dhamma, nguyện cho tất cả đàn bà sống một cuộc đời Dhamma, nguyện cho tất cả trẻ em được sống một cuộc đời Dhamma, nguyện cho mỗi gia đình đều được hạnh phúc, nguyện cho đời sống của các cư sĩ được hạnh phúc . Nguyện tất cả chúng sinh được hạnh phúc. Nguyện cho tất cả được hạnh phúc, nguyện cho tất cả được hạnh phúc, nguyện cho tất cả được hạnh phúc! Nguyện cho quý vị được hạnh phúc, nguyện cho quý vị được hạnh phúc, nguyện cho quý vị được hạnh phúc! Nguyện cho Dhamma thuần khiết được khởi sinh trong mọi cư sĩ, Nguyện cho mọi nhà được an lạc, Nguyện cho tất cả đàn ông và đàn bà sống một cuộc đời Dhamma, Nguyện cho tất cả đàn ông và đàn bà sống một cuộc đời Dhamma, Nguyện cho mọi cư sĩ được ngập tràn hạnh phúc. Nguyện cho tất cả được hạnh phúc, nguyện cho tất cả được hạnh phúc, nguyện cho tất cả được hạnh phúc! Nguyện cho quý vị được hạnh phúc, nguyện cho quý vị được hạnh phúc, nguyện cho quý vị được hạnh phúc! Nguyện mọi chúng sinh được hạnh phúc, nguyện mọi chúng sinh được hạnh phúc, nguyện mọi chúng sinh được hạnh phúc! |
MORNING CHANTING _ DAY 9 – BÀI TỤNG BUỔI SÁNG _ NGÀY THỨ 9 (English)
People of the world, awake! The dark night is over. The light has come of Dhamma, the dawn of happiness. Come, beings of the universe, let us walk the path of Dhamma. The path of Dhamma is the path of peace, the path of Dhamma is the path of happiness. Beneficial in the beginning, beneficial in the middle, beneficial at the end— every step is beneficial. There is benefit in moral conduct, benefit in controlling the mind, benefit in wisdom, leading to nibbāna. How many days did we keep wandering in blind alleys! Now that we have found the royal road, we will never look back again. Now that we have found the pure path, we will never turn back. Address to the Devas From throughout the world systems assemble here, oh devas, (3x) to listen to the pure Dhamma of the king of sages, leading to heaven and liberation. It is now time for listening to the Dhamma , respected ones. (3x) Homage to him, the blessed one, the worthy conqueror, the fully self-enlightened Buddha. (3x) I take refuge in the Buddha, I take refuge in the Dhamma, I take refuge in the Sangha. By walking on the path of Dhamma from the first step to the final goal, I pay respects to the Buddha; I pay respects to the Dhamma; I pay respects to the Sangha. To the Buddhas of the past, to the Buddhas yet to come, to the Buddhas of the present, always I pay respects. To the Dhammas of the past, to the Dhammas yet to come, to the Dhammas of the present, always I pay respects. To the Sanghas of the past, to the Sanghas yet to come, to the Sanghas of the present, always I pay respects. No other refuge have I, the Buddha is my supreme refuge. By this true utterance may there be victory and happiness. No other refuge have I, the Dhamma is my supreme refuge. By this true utterance may you have victory and happiness. No other refuge have I, the Sangha is my supreme refuge. By this true utterance may all beings be happy. Such truly is he: freed from impurities, having destroyed all mental defilements, fully enlightened by his own efforts, perfect in theory and in practice, having reached the final goal, knower of the entire universe, incomparable trainer of men, teacher of gods and humans, the Buddha, the Blessed One. Clearly expounded is the teaching of the Blessed One, to be seen for oneself, giving results here and now, inviting one to come and see, leading straight to the goal, capable of being realized by any intelligent person. Those who have practiced well form the order of disciples of the Blessed One; those who have practiced uprightly form the order of disciples of the Blessed One; those who have practiced wisely form the order of disciples of the Blessed One; those who have practiced properly form the order of disciples of the Blessed One; that is, the four pairs of persons, the eight kinds of individuals – these form the order of disciples of the Blessed One: worthy of gifts, of hospitality, of offerings, of reverent salutation, an incomparable field of merit for the world. Discourse on Welfare For twelve years [men] along with devas pondered, “What is welfare?” But they did not arrive at the thirty- eight welfares that bring happiness. The Lord of the devas [the Buddha] taught [that which] destroys all evil, for the benefit of the whole world: let us recite those welfares. Thus have I heard— At one time the Blessed One was dwelling in Sāvatthi at Jeta’s grove, the monastery of Anāthapiṇḍika. Then, indeed, when the night was well advanced, a certain female devā of surpassing beauty, illuminating the whole of Jeta’s grove, approached where the Buddha was. Having arrived there and respectfully saluting the Blessed One, she stood to one side. Standing to one side the devā addressed the Blessed one in verse: Many devas and men have pondered on welfares, yearning for happiness. Please explain what is the highest welfare. [Buddha replies:] Avoidance of fools, the company of the wise, honor where honor is due this is the highest welfare. A suitable place of abode, the merit of past good deeds, right aspirations for oneself this is the highest welfare. Great learning and skill, well-mastered discipline, well-spoken words this is the highest welfare. Serving one’s parents, caring for spouse and children, a peaceful occupation this is the highest welfare. Generosity, a life of Dhamma, caring for relatives, blameless deeds this is the highest welfare. Ceasing and shunning evil, refraining from intoxicants, vigilance in the Dhamma this is the highest welfare. Respectfulness, humility, contentment, gratitude, listening to the Dhamma at the proper time this is the highest welfare. Forbearance, accepting guidance, beholding saintly people, discussion of the Dhamma at the proper time this is the highest welfare. Ardent practice, a life of purity, witnessing the Noble Truths, experiencing nibbāna This is the highest welfare. When faced with the vicissitudes of life, one’s mind is unshaken, sorrowless, stainless, secure— this is the highest welfare. Having acted in this way, everywhere invincible, they go everywhere safely that is the highest welfare. Whatever beings are here assembled, whether terrestrial or celestial, the Tathāgata is revered by gods and men; we pay respects to the Buddha; [by the utterance of this truth] may there be happiness; we pay respects to the Dhamma [by the utterance of this truth] may there be happiness; we pay respects to the Sangha; [by the utter- ance of this truth] may there be happiness. I pay homage to my revered teacher, bowing my head at his feet. he gave me such a jewel of Dhamma that evil within me gets uprooted. He let me taste Dhamma’s nectar, now no sensual pleasure can allure. Such an essence of Dhamma he gave, that the shell [of ignorance] dropped away. From every pore such gratitude is pouring I cannot repay the debt I will live the Dhamma life and serve the suffering people [of the world], this is the only way [to repay the debt]. By the merits of this service, may all beings be happy! May Dhamma arise in the minds of all and liberate them from suffering. May every man live a life of Dhamma, may every woman live a life of Dhamma, may their children live a life of Dhamma, may each family be happy, may household life be happy. May all beings be happy May all be happy, may all be happy, may all be happy! May you be happy, may you be happy, may you be happy! May pure Dhamma arise in every household, may there be peace in every home, may every man and woman live a life of Dhamma, may all men and women live a life of Dhamma, may every household be filled with happiness. May all be happy, may all be happy, may all be happy! May you be happy, may you be happy, may you be happy! May all beings be happy, may all beings be happy, may all beings be peaceful! |